Khi lòng tự tôn đối diện với thực tế cuộc sống

“Định mệnh – đó là cái cớ của những tâm hồn không có ý chí. “

Romain Rolland

Xung đột nhận thức là gì?

Con người là giống loài tràn ngập niềm tin. Những niềm tin này được gọi là nhận thức (suy nghĩ, tư kiến) về khả năng, kỹ năng, đạo đức, v.v. của một người. Chúng sẽ ra lệnh cho hành vi của anh ta và cũng sẽ giúp anh ta diễn giải một sự kiện bên ngoài. Ai cũng có hiện thực của riêng mình. Sự xung đột nhận thức xảy ra khi một yếu tố nhận thức (tức là một yếu tố mà ta biết, chẳng hạn như một trong những hành vi của ta hoặc một sự kiện) đối nghịch với một hoặc nhiều niềm tin của ta. Sự bất hòa, xung đột hay mâu thuẫn này, gây ra một kiểu căng thẳng trong con người, thế rồi người ta tìm cách loại bỏ nó.

Ta phản ứng như thế nào khi các sự kiện đi ngược lại những gì ta tin tưởng?

Khi một người có xung đột đáng kể nhận thức: anh ta sẽ có một số “khuôn mẫu” về bản thân, tuy nhiên lại không thể đạt được mục tiêu của mình. Vậy ta có thể phản ứng như thế nào?

Có một số chiến lược khả dĩ. Hoặc ta có thể thêm một “yếu tố bào chữa”, như nói rằng đó là lỗi của người khác hoặc của hệ thống. Hoặc ta có thể giảm thiểu độ nghiêm trọng của những gì đang xảy ra, nghĩa là thay đổi thái độ, quan điểm của mình về vấn đề. Tã có thể tự nhủ rằng: “Chà, không thành vấn đề, tệ nhất là tôi sẽ làm một công việc khác.” Ta thường trích dẫn ví dụ về người hút thuốc, người này biết rằng hút thuốc có hại, họ nói: “Anh vẫn phải chết vì một cái gì đó chứ!” Cuối cùng, chiến lược tối hậu sẽ là thay đổi hành vi của anh ta, nghĩa là tự vấn. Chiến lược cuối cùng này càng khó thực hiện hơn khi bạn đã đầu tư rất nhiều công sức hay tiền bạc, bởi vì nó đặt câu hỏi về một phần lớn sự tồn tại của bạn! Ta thường chỉ đi đến lựa chọn này khi không còn lựa chọn nào khác nữa, ví dụ như sau khi mọi kế hoạch của ta thất bại.

Mối liên hệ giữa lòng tự tôn và hiện tượng xung đột nhận thức này là gì?

Hãy tưởng tượng một sinh viên có lòng tự tôn cao, kết cục là trượt một kỳ thi. Sự xung đột nhận thức: Người sinh viên nghĩ rằng mình xuất sắc lại thất bại. Phản ứng của anh ta có thể là gì? Có thể là, để bảo vệ niềm tin của mình (“Tôi có khả năng thành công trong việc học.”), anh ta sẽ tự nói với chính mình: “Dù sao, môn học này cũng thực sự quá khó” hoặc “Tại vì giáo viên của tôi dở quá”. Bới vì tự nhủ rằng anh ta chưa học đủ hoặc không có đủ kỹ năng sẽ là quá nguy hiểm cho lòng tự tôn của anh ta, ít nhất là ban đầu, anh ta sẽ muốn tìm ra nguyên nhân bên ngoài cho sự thất bại của mình.

Những người có lòng tự tôn cao thường ít tự vấn hơn những người có lòng tự tôn thấp. Trong một số trường hợp, đây có thể là một điểm cộng vì họ bền bỉ và quyết tâm hơn, nhưng lòng tự tôn kiểu này cũng có thể được nhìn nhận là tính bướng bỉnh, đôi khi thậm chí còn là tính tự mãn hoặc phù phiếm.

Hãy xem xét tình huống ngược lại. Bây giờ hãy tưởng tượng một sinh viên khác, với lòng tự tôn thấp hơn nhiều, đã thành công kỳ thi này. Phản ứng của anh ta có thể là gì? Anh ta có thể làm điều tương tự, tức là “bảo vệ” lòng tự tôn của mình, vì muốn nhất quán với tầm nhìn mà anh ta có về bản thân. Vì vậy, anh ta có thể nói với chính mình: “Kỳ thi dễ quá mà”, hoặc “Tại vì tôi may mắn thôi”.

Giữa lòng tự tôn cao (ta kiên trì tiến tới dù mọi bằng chứng đều chứng minh rằng ta sai) và lòng tự tôn thấp (ta không nhận ra công lao của mình và đánh giá thấp bản thân), có lòng tự tôn tốt hay lành mạnh. Đó là lòng tự tôn mà, khi nhìn nhận sự việc, thúc đẩy cá nhân thay đổi hành vi của mình, mà không phải hoàn toàn tự vấn đến mức tự đổ lỗi, và nó cũng cho phép anh ta tận hưởng đầy đủ thành tựu của mình và tự hào.

Video tóm tắt các điểm cần nhớ:


Các bài viết được biên tập theo cuốn sách Phát triển lòng tự tôn (Développer son estime de soi), 2012, tác giả Marie-Laure Cuzarq

Vân Anh dịch, biên tập và trình bày

Vân Anh Nguyễn

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Lên đầu trang