Kỹ thuật bắt chước các mô hình tích cực (Imitation of models)
Đây là một hình thức trị liệu tiếp xúc khác lấy cảm hứng từ lý thuyết xã hội học. Từ lý thuyết xã hội học dự đoán rằng các cá nhân có được phản ứng thông qua quan sát. Vì vậy, những người mắc chứng ám ảnh sợ có thể đảo ngược sự học các phản ứng sợ hãi thông qua việc bắt chước các mô hình.
Ví dụ, trong điều trị chứng sợ rắn, một nhà trị liệu đầu tiên sẽ làm minh họa hành vi tiếp cận không sợ hãi ở mức độ tương đối nhỏ, có thể là đến gần chuồng rắn hoặc chạm vào rắn. Thân chủ được hỗ trợ, thông qua minh họa và khuyến khích, bắt chước hành vi được mô hình hóa. Dần dần, các hành vi tiếp cận được thành hình và thân chủ có thể nhặt con rắn và để nó bò tự do lên người đó. Thân chủ không lúc nào bị buộc phải thực hiện bất kỳ hành vi nào. Sự kháng cự ở bất kỳ cấp độ nào cũng được khắc phục bằng cách đưa khách hàng quay trở lại mức độ thành công trước đó, lúc hành vi tiếp cận ít đe dọa hơn.
Sức mạnh của hình thức mô hình hóa người tham gia (participant modeling) này có thể được thấy trong nghiên cứu so sánh kỹ thuật này với mô hình hóa biểu tượng, giải mẫn cảm và một điều kiện được kiểm soát. Trong liệu pháp mô hình hóa biểu tượng (symbolic modeling therapy), những cá nhân đã được đào tạo về kỹ thuật thư giãn đã xem một bộ phim trong đó một số mô hình tiếp cận rắn một cách không sợ hãi; họ có thể dừng bộ phim và cố gắng thư giãn bất cứ khi nào có một cảnh khiến họ cảm thấy lo lắng. Trong điều kiện được kiểm soát này, không có can thiệp trị liệu nào được sử dụng.

(Hình vẽ) Mô hình hóa người tham gia là kỹ thuật thành công nhất. Chứng sợ rắn đã được loại bỏ ở 11 trong số 12 cá nhân tham gia (Bandura, 1970).
Liệu pháp “Ác cảm” (Aversion Therapy)
Các hình thức trị liệu tiếp xúc vừa được nói ở trên giúp thân chủ đối phó trực tiếp với các kích thích không thực sự có hại. Nhưng với những người bị thu hút bởi những kích thích có hại thì sao? Như nghiện ma tuý, những biến thái tình dục và bạo lực không thể kiểm soát là những vấn đề của con người, trong đó hành vi lệch lạc được khơi gợi bởi những kích thích gây cám dỗ.
Liệu pháp ác cảm sử dụng các quy trình phản điều kiện hóa để ghép những kích thích này với những kích thích độc hại mạnh như sốc điện hoặc thuốc gây buồn nôn. Theo thời gian, một phản ứng tiêu cực sẽ được gợi lên cùng lúc với các kích thích hấp dẫn, và người này nảy sinh ác cảm thay thế cho ham muốn trước đây của anh ta.
Ví dụ: liệu pháp ác cảm đã được sử dụng với những cá nhân có các hành vi tự gây thương tích, chẳng hạn như tự đập đầu hoặc đập đầu vào các vật khác. Khi một cá nhân thực hiện một hành vi như vậy, người đó nhận một cú điện giật nhẹ. Phương pháp điều trị này giúp loại bỏ hiệu quả các hành vi tự gây hại ở một số bệnh nhân, nhưng không phải tất cả, bệnh nhân (Van Oorsouw và cộng sự, 2008). Bởi vì liệu pháp ác cảm có thể gây hại, các cân nhắc về đạo đức yêu cầu nhà trị liệu sử dụng chúng chỉ khi các liệu pháp khác đã thất bại (Prangnell, 2010).
Quản lý phương pháp dự phòng
Các quy trình phản điều kiện hóa thích hợp khi một phản hồi có thể được thay thế bằng một phản hồi khác. Các quy trình thay đổi hành vi khác dựa trên các nguyên tắc của của sự điều kiện hóa chức năng (operant conditioning), xuất phát từ truyền thống nghiên cứu do B. F. Skinner đi tiên phong. Quản lý phương pháp dự phòng đề cập đến chiến lược điều trị thay đổi hành vi bằng cách sửa đổi hậu quả của nó. Hai kỹ thuật chính của quản lý dự phòng trong liệu pháp hành vi là các chiến lược củng cố tích cực (positive reinforcement strategies) và các chiến lược dập tắt (extinction strategies).
1. Các chiến lược củng cố tích cực (Positive reinforcement strategies)
Khi một phản hồi được đi kèm ngay sau đó là phần thưởng, phản hồi có xu hướng lặp đi lặp lại và tăng tần suất theo thời gian. Nguyên tắc trung tâm về sự học tập theo chức năng này trở thành một chiến lược trị liệu khi nó được sử dụng để sửa đổi tần suất một phản hồi đáng mong muốn vì nó thay thế cái không được mong muốn. Việc áp dụng các quy trình củng cố tích cực cho các vấn đề về hành vi đã đạt được thành công ấn tượng.
Kỹ thuật định hình (shaping) trong đó các nhà nghiên cứu củng cố các cách gần đúng liên tiếp đến một hành vi mong muốn. Kỹ thuật định hình được sử dụng để trợ giúp người hút thuốc giảm số lượng thuốc lá mà họ đã hút (Lamb và cộng sự, 2007). Các nhà nghiên cứu đã đo lượng carbon monoxide (BCO) trong hơi thở của những người tham gia để xác định thói quen hút thuốc ban đầu.
Khi nghiên cứu được mở ra, những người tham gia nhận được ưu đãi bằng tiền mặt nếu có BCO dưới mức mục tiêu cụ thể (được thiết lập cho từng người hút thuốc). Những mục tiêu đó trở nên khó hơn theo thời gian — định hướng người tham gia theo hướng hành vi mong muốn là kiêng hút thuốc lá.
Phần thưởng có thể được quy đổi thành jeton hay token, trong đó các hành vi được mong muốn (chẳng hạn như thực hành chăm sóc cá nhân hoặc dùng thuốc) được xác định rõ ràng, và phần thưởng token được nhân viên tổ chức đưa ra khi các hành vi được thực hiện. Các token này sau đó có thể được quy đổi thành một loạt các phần thưởng và đặc quyền (Dickerson và cộng sự, 2005; Matson & Boisjoli, 2009). Các hệ thống củng cố này đặc biệt hiệu quả trong việc sửa đổi hành vi của bệnh nhân liên quan đến việc tự chăm sóc bản thân, duy trì môi trường xung quanh yên ổn và tăng tần suất các tương tác xã hội tích cực.
Trong một cách tiếp cận khác, các nhà trị liệu củng cố các hành vi không tương thích với hành vi không thích hợp.
Kỹ thuật này đã được sử dụng thành công với các cá nhân cần được điều trị cắt cơn nghiện ma tuý.
— “Các nhà nghiên cứu đã tuyển chọn 87 cá nhân đang tìm cách điều trị chứng lệ thuộc cocaine vào một nghiên cứu kéo dài 12 tuần (Petry & Roll, 2011). Tất cả những người tham gia nhận được điều trị tiêu chuẩn là một loạt các buổi tư vấn truyền đạt các chiến lược và kỹ năng vượt qua sự lệ thuộc. Ngoài phần điều trị tiêu chuẩn này, những người tham gia còn có cơ hội giành giải thưởng, nếu có mẫu nước tiểu âm tính. Để giành giải thưởng, những người tham gia rút thăm từ một cái bát. Một nửa trong số thăm (50%) ghi “Làm tốt lắm, hãy thử lại”. Tuy nhiên, 44% số thăm mang lại giải thưởng $1 và 6% đem lại giải thưởng $20. Cái bát cũng có một tờ thăm ghi giải thưởng 100 đô la. Với mẫu âm tính đầu tiên, những người tham gia được rút thăm một lần. Đối với mỗi mẫu âm tính tiếp theo, họ được thêm một lần rút. Một mẫu dương tính lại khiến họ giảm số lần rút thành một lần duy nhất. Ba tháng sau khi hoàn thành quy trình này, 26,9% người tham gia vẫn kiêng cocaine. Lưu ý rằng số tiền thực tế mỗi người chiến thắng được xác định bởi tờ thăm may mắn mà họ rút khỏi bát. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng số tiền thưởng một người giành được càng cao, càng có nhiều khả năng người đó không sử dụng cocaine.“—-
Nghiên cứu này xác minh rằng quản lý dự phòng có thể được sử dụng thành công trong việc điều trị nghiện ma túy. Chỉ để có cơ hội giành được giải thưởng, những người sử dụng ma túy có thể không dùng chất — và ba tháng sau vẫn vậy. Ở đây có cùng một triết lý với động lực thúc đẩy quá trình phản điều kiện hóa đã nói ở trên: Các nguyên tắc cơ bản của việc học được sử dụng để tăng xác suất các hành vi thích hợp.
2. Các chiến lược dập tắt (Extinction strategies)
Tại sao người ta tiếp tục làm điều gì đó gây ra đau đớn và khổ sở dù họ có khả năng làm khác? Câu trả lời: là nhiều hình thức hành vi có nhiều hậu quả — một số là tiêu cực và một số là tích cực. Thông thường, những củng cố tích cực dù vi tế cũng vẫn sẽ duy trì một hành vi bất chấp những hậu quả tiêu cực rõ ràng của nó. Ví dụ: trẻ em bị trừng phạt vì hành vi sai trái có thể tiếp tục cư xử sai nếu hình phạt là hình thức duy nhất mà chúng có được để nhận được sự chú ý từ người lớn.
Chiến lược dập tắt sẽ hữu ích trong trị liệu khi các hành vi rối loạn chức năng được duy trì bởi các tình huống củng cố không được công nhận. Những yếu tố củng cố đó có thể được xác định thông qua một phân tích tình huống cẩn thận, và sau đó có thể sắp xếp một chương trình để kìm chúng lại khi có phản ứng không mong muốn. Khi phương pháp này khả dĩ, và mọi người trong tình huống vốn có thể vô tình củng cố hành vi lại hợp tác với nhau được, thì các quy trình dập tắt sẽ được thực hiện để giảm tần suất của hành vi và cuối cùng loại bỏ chúng hoàn toàn.
Hãy xem xét một ví dụ trong lớp học. Có cậu bé mắc chứng giảm tập trung / rối loạn tăng động giảm tập trung đã gây ra vấn đề với giáo viên vì cậu thường có các hành vi gây rối và không thực hiện nhiệm vụ. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng sự chú ý mà giáo viên dành cho học sinh này khi cậu có các hành vi gây rối đó đã đã củng cố chúng một cách tích cực (Stahr và cộng sự, 2006). Khi giáo viên không còn chú ý đến cậu lúc cậu cư xử không phù hợp, hành vi của học sinh được cải thiện.
Nguồn: Psychology and life, Richard J. Gerrig, 20th Edition, 2013, Pearson Education Inc
Dịch bởi: Vân Anh
Biên tập và Trình bày: Thu Thủy