Vấn đề về văn hóa và giới trong trị liệu tâm lý

🍁 Sự đa dạng về văn hóa và giới trong điều trị tâm lý

Mục tiêu quan trọng của các bác sĩ lâm sàng là cứu trợ cho tất cả mọi người người bị rối loạn tâm lý. Tuy nhiên, mục tiêu đó rất phức tạp bởi sự đa dạng về văn hóa và giới tính. Trước hết, không phải nhóm văn hóa nào cũng có khả năng tìm kiếm và nhận điều trị (Wang và cộng sự, 2005; Youman và cộng sự, 2010). Ví dụ, tại Hoa Kỳ, người da trắng có nhiều khả năng tìm kiếm điều trị hơn là các nhóm thiểu số gốc châu Phi, Nam Mỹ và Á. Một phần quan trọng của sự khác biệt đó là khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần không bình đẳng giữa các nhóm dân.
Tuy nhiên, các chuẩn mực văn hóa cũng ảnh hưởng đến mức độ mà con người sẵn sàng tìm kiếm sự chăm sóc tâm lý (Snowden & Yamada, 2005). Ví dụ: nghiên cứu cho thấy người Mỹ gốc Phi có nhiều khả năng giải thích bệnh tâm thần là bệnh thể chất. Do đó, họ ít có khả năng được trị liệu tâm lý khi việc đó là thích hợp (Bolden & Wickes, 2005).
Một vấn đề về tính đa dạng khác nảy sinh khi người ta thực sự tìm kiếm việc trị liệu: một liệu pháp cụ thể không có hiệu quả như nhau trên tất cả các nhóm văn hóa. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu chứng minh tầm quan trọng của liệu pháp tâm lý phù hợp với văn hóa, được định nghĩa là “sự chỉnh sửa về mặt hệ thống của một [phương pháp điều trị]… cần xem xét ngôn ngữ, văn hóa, và ngữ cảnh theo cách tương thích với các mô hình, ý nghĩa và giá trị văn hóa ”(Bernal và cộng sự, 2009, p. 362). Các nền văn hóa khác nhau về sự tôn trọng của họ về ý thức đối với bản thân (sense of self).
Sự thích ứng văn hóa sẽ là sửa đổi các hình thức trị liệu tâm lý để nhận biết khi nào khách hàng đến từ các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân hoặc chủ nghĩa tập thể (Smith và cộng sự, 2011). Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng liệu pháp tâm lý có thích ứng với văn hóa có giá trị trị liệu cao hơn các liệu pháp mang tính tiêu chuẩn và bị áp đặt lên tất cả các nhóm chủng tộc kể cả dân tộc thiểu số (Benish và cộng sự, 2011; Smith và cộng sự, 2011). Cần phải nghiên cứu thêm để xác nhận những kết quả ban đầu này.
Tương tự, cần nhiều nghiên cứu hơn để đánh giá mức độ hưởng lợi khác nhau của khách hàng nam và nữ từ các liệu pháp giống nhau (Sigmon và cộng sự, 2007). Sự khác biệt giới tính về mức độ phổ biến của các rối loạn tâm lý đã được nghiên cứu cho thấy: phụ nữ bị rối loạn ăn uống nhiều hơn nam giới. Vì lý do đó, hầu hết các liệu pháp tâm lý cho chứng rối loạn ăn uống đã được phát triển cho trẻ em gái và phụ nữ trẻ (Greenberg & Schoen, 2008). Các nhà nghiên cứu phải xác định xem phương pháp tiếp cận đó sẽ có hiệu quả với nam giới đến mức độ nào. Tương tự, các nhà nghiên cứu phải xác định các liệu pháp mà bác sĩ lâm sàng phát triển để điều trị nam giới cần được sửa đổi đến đâu để điều trị cho phụ nữ.
Một vấn đề đa dạng cuối cùng nảy sinh liên quan đến việc đào tạo của các nhà trị liệu tâm lý: Các nhà trị liệu phải được chuẩn bị để cung cấp phương pháp điều trị có tính đến với sự khác biệt văn hóa. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng các nhà trị liệu phải có năng lực văn hóa (cultural competence) (Imei và cộng sự, 2011). Năng lực văn hóa được định nghĩa là có ba thành phần (Sue, 2006, trang 238).
– Nhận thức và niềm tin văn hóa: Sự nhạy cảm của nhà tham vấn, trị liệu đối với các giá trị và thành kiến ​​của bản thân người đó và cách những điều này có thể ảnh hưởng đến nhận thức của khách hàng, vấn đề của khách hàng và mối quan hệ tham vấn.
– Kiến thức văn hóa: Kiến thức của của nhà tham vấn và trị liệu về văn hóa, thế giới quan và kỳ vọng của khách hàng đối với mối quan hệ tham vấn.
– Kỹ năng văn hóa: Khả năng can thiệp của nhà tham vấn theo một cách thức mang tính nhạy cảm và phù hợp về mặt văn hóa của khách hàng.
Nghiên cứu cho thấy rằng các nhà trị liệu có năng lực văn hóa cao hơn cũng có kết quả điều trị tốt hơn với bệnh nhân và khách hàng từ các nhóm sắc tộc khác nhau (Worthington và cộng sự, 2008).

🍁 Các biểu tượng văn hóa và những nghi thức trị liệu

Việc chúng ta xem xét lại những trào lưu lịch sử trong việc điều trị các rối loạn tâm lý được hạn chế theo quan điểm và phong tục, văn hoá phương Tây vốn chú trọng đến tính duy nhất của mỗi cá thể, sự độc lập và trách nhiệm bản thân. Cả việc nghiên cứu ma quỷ và mô hình bệnh tật đều nhất quán với sự nhấn mạnh này, coi rối loạn tâm lý như điều xảy ra bên trong một con người và như là một thất bại của cá nhân.
Quan điểm này không nhận được nhiều sự chia sẻ từ các nền văn hóa khác (Triandis, 1995). Nghiên cứu về nhân loại học văn hóa đã cung cấp những phân tích giải thích và cách điều trị rối loạn tâm lý ỏ các nền văn hóa khác nhau (Bourguignon, 1979; Evans- Pritchard, 1937; Kluckhohn, 1994; Marsella, 1979). Chẳng hạn, theo quan điểm của người châu Phi, tầm quan trọng là sự hợp tác, sự tương tác, sự đồng nhất về bản chất và trách nhiệm cộng đồng (Nobles, 1976). Ngược lại với quan điểm của nhiều nền văn hóa không thuộc châu âu là điều trị bệnh tâm thần bằng cách dời những người bệnh ra xa xã hội, ở nhiều nước châu Phi, việc điều trị diễn ra trong bối cảnh cộng đồng, liên quan đến niềm tin của con người, gia đình, công việc và môi trường sống không căng thẳng. Cách sử dụng nhóm trợ giúp của người châu Phi trong việc điều trị đã được mở rộng theo một tiến trình được gọi là “điều trị hệ thống”, ở đó toàn bộ họ hàng, đồng nghiệp và bạn bè của bệnh nhân đều liên quan đến việc điều trị (Lambo, 1978).
Ở nhiều nền văn hóa, việc điều trị các bệnh tinh thần và cơ thể được liên hệ với tôn giáo và ma thuật. Các pháp sư (shaman), được trao cho những quyền lực đặc biệt có thể giúp đỡ cho việc chuyển hóa ở những người gặp khó khăn. Hệ thống văn hóa này nhân cách hóa các thế lực không rõ ràng thành số mệnh và thời điểm xảy ra vấn đề trong cuộc đời một người. Những kiểu nhân cách hóa như vậy cho phép áp dụng các hành động trực tiếp chống lại những người bị coi là làm điều ác và trực tiếp tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người điều trị được coi là có phép màu (Middleton, 1967). Thông thường, tình trạng bệnh lý của những người có cuộc sống tâm linh khổ sở được thay đổi nhờ sự can thiệp của người chữa bệnh là pháp sư. Đánh trống, hát và các nghi lễ khác được dùng nhằm tạo nên nỗi sợ hãi và tạo ra những trạng thái ý thức biến đổi, trợ giúp cho việc đạt được hiểu biết và sức mạnh (Walsh, 1990).
Những biểu tượng, chuyện thần thoại và các nghi lễ quan trọng khác đóng vai trò quan trọng trong các nghi lễ trị liệu dân gian trong công chúng (Lévi-Strauss, 1963). Các nghi lễ điều trị bằng tế lễ truyền sức mạnh tinh thần và ý nghĩa đặc biệt đến tiến trình điều trị. Chúng làm tăng tính ám thị, kết hợp với việc sử dụng những biểu tượng, các nghi lễ này gắn mỗi người bệnh, pháp sư và xã hội và các thế lực siêu nhiên với nhau để giành chiến thắng trong cuộc chiến chống lại chứng điên (Devereux, 1961). Cách điều trị khác được sử dụng trong một số nghi thức điều trị là tạo ra trạng thái ý thức phân ly do trạng thái nhập đồng đem lại (trạng thái trance-sóng não Theta). Theo quan điểm phương Tây, bản thân sự phân ly là một triệu chứng của rối loạn tâm thần cần được ngăn chặn hay điều trị; ở vài nền văn hóa khác, khi ý thức phân ly, “các linh hồn cao cấp được liên kết với nhau và các linh hồn cấp thấp bị xua đuổi”.
Mặc dù các pháp sư và những người điều trị đóng vai trò đặc biệt trong các nghi lễ thò cúng, khả năng điều trị hầu hết thường vượt qua khả năng của cá nhân người điều trị và nằm ở các thế lực siêu nhiên (Katz, 1982, 1993). Trong mô tả về việc điều trị ở Fiji, nhà tâm lý học Richard Katz viết: “Việc trở thành cầu nối trong lĩnh vực tâm linh đòi hỏi sự dâng hiến một sức mạnh điều trị nằm ngoài bản thân và kéo theo sự đóng góp nhỏ nhoi của chính người đó vào việc điều trị. Những người điều trị người Fiji không khẳng định việc sở hữu mana cá nhân [sức mạnh tinh thần có nguồn gốc từ tổ tiên] hay không nhận công trạng riêng trong việc điều trị hiệu quả” (trang 327 – 328). Katz đưa ra sự so sánh rõ ràng đối với cách tiến hành của phương Tây: “Ngược lại, các nhà điều trị phương Tây lại thích khẳng định sự kiểm soát, nếu không nói là sở hữu, khả năng cứu chữa của mình. Khả năng — biết làm việc gì, hay ít nhất là không để lộ điều mà mình không biết — được nhấn mạnh vào tính dễ bị tổn thương tự nhiên của con người” (trang 328).
Ảnh hưởng của những nhận thức có tác động đến xã hội và sự chú trọng đến bối cảnh gia đình và cộng đồng trợ giúp là bằng chứng cho những cách thức điều trị mới hơn chú trọng đến mạng lưới giúp đỡ của toàn xã hội và việc điều trị tại nhà. Hiện nay các nhà điều trị theo trường phái Tây Âu và Bắc Mỹ biết làm việc nhiều hơn với các pháp sư nhằm cố gắng kết hợp các liệu pháp tâm lý phương Tây – liên quan đến việc tự phân tích – những liệu pháp của các cộng đồng nhìn nhận cá nhân trong bối cảnh cộng đồng hiện tại. Những nỗ lực hòa nhập này làm cho các liệu pháp điều trị ngày càng phù hợp hơn về mặt văn hóa trên diện rộng (Kraut, 1990).
(còn tiếp)
Dịch bởi Vân Anh
Biên tập và trình bày: Thu Thủy
Nguồn: Psychology and life, Richard J. Gerrig, 20th Edition, 2013, Pearson Education Inc.

Thủy Trần

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Lên đầu trang