Tấm và Cám,
Cinderella ở Việt Nam hay hành trình khai tâm của một người phụ nữ
Tác giả: Bác sĩ Y khoa và nhà Tâm lý Marie-Eve Hoffet-Gachelin (Đại học Paris V, Paris, Pháp).
***
Từ thời xa xưa, ta đã tìm thấy câu chuyện về Cinderella ở mọi lục địa. Phiên bản Việt Nam là câu chuyện của Tấm và Cám. Nó nói về việc người phụ nữ bắt đầu được khai tâm vào vai trò của mình trong một xã hội Nho giáo, nơi mà vị trí của cô rất hạn chế và cô thường bị coi là người ít tự chủ và phải quy thuận theo người chồng.
Một số học giả trong và ngoài nước có quan tâm đến câu chuyện này. Trong số họ, chúng tôi sẽ trích dẫn Đỗ Lan Chi Lan[1], Nguyễn Văn Dũng[2], Hữu Ngọc[3], Cécile Gagnon[4] và gần đây là Brigitte Moise Durand[5], để việc đọc truyện trở thành một cách đọc so sánh giữa truyền thống và phân tâm học.
Các cách đọc và cách giải thích khác nhau của câu chuyện này đều rất thú vị, mỗi bài tổng hợp đều có một phần ý nghĩa mà câu chuyện truyền tải.
Chúng tôi đã chọn đi theo phiên bản sát nhất có thể và so sánh nó với các phiên bản phương Tây, để xác định các đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Chúng tôi rất ngạc nhiên bởi những gì được phát hiện và chúng tôi không tìm thấy chúng trong bất kỳ phân tích nào khác mình gặp phải. Chúng tôi muốn đề xuất thảo luận về cách đọc này. Đối với chúng tôi, phân tích này dường như cho một cái nhìn hơi khác về truyền thống.
Cinderella là câu chuyện về một cô bé mồ côi mẹ, bị người mẹ kế và những đứa con gái của bà ta ngược đãi, ăn mặc rách rưới và bị ép làm những công việc nhà thấp kém nhất. Với một “happy end” luôn luôn giống hệt nhau : bất chấp số phận đau khổ, Cinderella vẫn quyến rũ được Hoàng tử Charming và trở thành hoàng hậu. Người ta thường nói rằng sự thành công và độ phổ biến của câu chuyện này trên toàn thế giới là do hoàn cảnh khó khăn và mang tính phổ quát của hình tượng cô con gái sống dưới trướng của người mẹ kế, được bù đắp trong câu chuyện bằng việc hiện thực hóa những giấc mơ mang tính chữa lành của cô gái trẻ, và chúng sẽ hé lộ tất cả những trò xấu xa của mẹ kế và những đứa con riêng. Không chỉ có cốt truyện giống hệt nhau trong các phiên bản khác nhau, mà ta còn thấy các yếu tố “phụ trợ” có sự tương đồng đáng chú ý, ví dụ như :
- sự bảo vệ và can thiệp của một nhân vật siêu nhiên, người này không chỉ giúp cô bé thực hiện những nhiệm vụ bất khả thi được áp đặt cho cô, mà còn là người cung cấp cho cô những trang phục tuyệt vời, cỗ xe, ngựa, v.v. theo cách thật kỳ diệu, cho phép cô xuất hiện thật xinh đẹp trước mặt hoàng tử (trong vũ hội hay bữa tiệc).
- nhân vật nữ chính làm mất một chiếc giày; chiếc giày được hoàng tử tìm thấy và anh tuyên bố rằng mình sẽ kết hôn với cô gái có thể mang chiếc giày này. Nữ chính là người duy nhất làm được việc đó: trở thành nữ hoàng.
Chúng tôi tập trung nghiên cứu so sánh các phiên bản phương Tây của Grimm và Perrault (mà chúng tôi sẽ gọi là phiên bản O) và đối với Việt Nam, phiên bản viết đầu tiên do Đỗ-Lan Chi-Lan dịch sang tiếng Pháp (mà chúng tôi sẽ gọi là phiên bản V). Tuy nhiên, tất nhiên chúng tôi sẽ tự cho phép gợi thêm các phiên bản khác, có nguồn gốc phương Tây hoặc phương Đông, để tinh chỉnh luận đề của chúng tôi.
Trước tiên, chúng ta sẽ xem xét sự khác biệt về bối cảnh, ta có thể dễ dàng giải thích bởi sự khác biệt về khí hậu hoặc phong tục, nhưng lại có tác động thực sự đến tiểu sử của nhân vật nữ chính. (Do đó, chúng tôi đã chọn không đề cập đến một số chi tiết cụ thể rất “Việt Nam”khi đối với chúng tôi, chúng dường như chỉ là biểu hiện mang tính địa phương, chẳng hạn như yếm, quả thị, miếng trầu, v.v.)
Tên truyện :
Một mặt chúng ta sẽ chỉ tập trung vào chính tên truyện (Tấm và Cám) cũng như tất cả những gì mà tựa truyện này gợi ra, mặt khác, vào nhân vật siêu nhiên, mà có sự can thiệp vào nhân vật nữ chính cho phép cô nhận được cái kết có hậu.
Trong các phiên bản O, câu chuyện được đặt tên theo biệt danh của nhận vật nữ chính, thể hiện một thân phận hèn kém. Ta chỉ biết đến tên là Cinderella (Lọ Lem) hoặc Culcendron. Tên thật của cô bé không được nói ra trong câu chuyện. Ngược lại, trong phiên bản V, chúng ta có tựa đề là hai cái tên của HAI nhân vật nữ chính của câu chuyện : Tấm (= Cinderella) và Cám (= em gái cùng cha khác mẹ). Tuy nhiên, tên của hai cô gái ở phiên bản V không phải là không có ý nghĩa : Tấm có nghĩa là “tấm gạo”, Cám là “vỏ trấu”. Sự liên hệ đến một đất nước trồng lúa ở đây là rõ ràng và ta thậm chí có thể xác định rằng đây là xứ sở trồng lúa nước : tầm quan trọng của nước trong các sự kiện khác nhau trong cuộc đời của Tấm và Cám mang ý nghĩa then chốt (những thử thách khác nhau, Tấm chết chìm, đánh mất chiếc giày giữa hồ, hình phạt của Cám, v.v.). Ta cũng có thể lưu ý thêm rằng: sự lựa chọn của hai tên này (âm đọc nghe vần với nhau và còn mang một chủ đề chung) thể hiện rõ ràng rằng họ là hai đứa trẻ thuộc cùng một tập hợp anh chị em. Yếu tố này nhấn mạnh điều chúng tôi vừa làm rõ : Tấm và Cám thực sự là chị em, ngược lại trong các bản O, nhân vật nữ chính không có quan hệ huyết thống với “hai người chị em” của mình. (Phiên bản O : sau cái chết của mẹ Lọ Lem, người cha đi bước nữa và cưới một người phụ nữ đã có hai con gái/Phiên bản V : người cha ” thường phàn nàn ông không có con trai để tiếp tục thờ cúng tổ tiên, quá ba năm sau, ông lấy vợ khác (…) rồi sinh thêm một con gái gọi là Cám...)[6] và ở đây Tấm chắc chắn lớn tuổi hơn. Chúng ta sẽ thấy rằng thực tế này không phải là không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai chị em, không giống như phiên bản O, nơi ta có thể giả định từ nhiều manh mối là hai cô con gái riêng của mẹ kế lớn hơn Cinderella và dù sao họ cũng không có kết nối về mặt huyết thống với cô.
Cuối cùng, ta có thể thấy, như Đỗ Lan Chi Lan đã phân tích, “hạt gạo dù bị vỡ vẫn tốt hơn vỏ cám : ngay từ đầu cái tên đã cung cấp thông tin về giá trị nội tại của con người”[7]. Ngay từ đầu, độc giả sành sỏi có thể kỳ vọng luôn là câu chuyện sẽ “kết thúc tốt đẹp” cho Tấm! (“Cám xinh, nhưng Tấm vẫn vượt trội về trí tuệ và sắc đẹp”) nhưng điều đó ngay lập tức đưa Tấm vào vai nạn nhân (“Mẹ Cám bức xúc, bà tàn nhẫn với con gái riêng của chồng…”)
Chúng ta sẽ phải quay trở lại, trong phần thứ hai của nghiên cứu này, về sự tồn tại của mối liên hệ huyết thống giữa Tấm và Cám, cũng như địa vị con cả của Tấm.
Nhân vật siêu nhiên
Đó là người đến để giúp đỡ cô gái nhỏ, và với một cái chiếc đũa thần, đã cho cô một chiếc xe ngựa và trang phục đẹp để đi dự vũ hội… và cho nhân vật nữ chính của câu chuyện một cái kết có hậu.
Trong các bản O, đó là bà tiên, tức là một nhân vật “không tồn tại” hay chính xác hơn là người chỉ tồn tại trong truyện cổ tích, theo một kiểu thỏa thuận ngầm giữa người kể chuyện và người đọc (cho dù người đọc là người lớn hay trẻ em).
Trong phiên bản V, đó là Bụt (Phật). Nhưng “sự tồn tại” của Bụt không được gợi lên với tư cách giống như một vị thần tiên. Bụt là một đấng thiêng liêng, “sự tồn tại” là “có thật” đối với những người theo đạo Phật (và phần lớn người Việt Nam là vậy) và “sự hiển hiện” của Bụt không chỉ là một chuyện hư cấu trong một câu chuyện cổ tích. Bụt là dấu hiệu hữu hình cho một sự siêu việt.
Trong phiên bản V, Bụt không bằng lòng với việc giúp đỡ cô gái nhỏ, sau đó là cô gái trẻ với cây đũa thần, ngài còn đóng vai trò giáo dục : khi Tấm, nhút nhát và sợ hãi, tranh cãi về lời khuyên của ngài, “Con sẽ không bao giờ dám yêu cầu chim sẻ giúp đỡ con đâu. Nếu chúng ăn hết thóc, con sẽ bị mẹ kế đánh chết.“, Bụt khuyên cô nên ra lệnh một cách, cứng rắn bằng cách nói với chim sẻ : “Hỡi chim sẻ, hãy đến lựa thóc cho ta. Nhưng nếu các ngươi ăn một hạt, ta sẽ đánh các ngươi chết!“.
Sau đó, trong khi Tấm buồn vì mất người bạn là con cá bống bị Cám ăn thịt mất, Bụt khuyên cô đặt xương cá ở bốn chân giường, trong bốn lọ chứa xương. Mệnh lệnh rõ ràng là vô lý, nhưng Tấm đã tuân theo Bụt; và chính trong bốn chiếc lọ này, nhiều năm sau, Tấm sẽ tìm thấy “tất cả những gì cô mơ ước, hoàn hảo với dáng người của cô : một chiếc áo dài lộng lẫy màu hồng đào, một tấm yếm có hoa, một chiếc quần và một chiếc thắt lưng lụa, một chiếc khăn xếp, đôi hài xinh xắn được thêu bằng chỉ vàng, một con ngựa thật được thắt dây cương đầy kiêu hãnh…” Có vẻ như trong câu chuyện này, không có gì là do ngẫu nhiên và ngay từ đầu Bụt đã có một tầm nhìn rất chính xác về số phận của Tấm (trừ khi chính ngài là người dàn xếp nên định mệnh này?).
Do đó, chính vì dựa vào các sự kiện đánh dấu số phận này, giờ đây ta sẽ thấy các giai đoạn khác nhau của câu chuyện trong phiên bản V, chúng đánh dấu một nét độc đáo đáng kể và chuyên biệt cho câu chuyện của Việt Nam. Do đó, ta sẽ lần lượt quan sát ba biến thể của chính câu chuyện, chúng bộc lộ những khác biệt sâu sắc về mặt tâm lý và xã hội. Theo trình tự thời gian của câu chuyện, đó là :
1- Nữ chính được vua “công nhận” nhờ chiếc hài.
2-Những sự ngược đãi đối với nữ chính tiếp diễn sau khi kết hôn cũng như vụ sát hại nữ chính do mẹ kế gây ra. Cái chết của Tấm được tiếp nối bởi nhiều lần tái sinh, mà người mẹ kế vẫn cố chấp kiên trì.
3- Hình phạt mà nữ chính gây ra cuối cùng cũng bù lại những gì hai nhân vật nữ phụ đã bức hại cô.
1- Sự nhận diện bằng chiếc hài.
Trong các phiên bản O khác nhau, hoàng tử tổ chức một bữa tiệc (hay vũ hội) và Cinderella cố gắng đến được đó bất chấp sự cấm đoán của bà mẹ kế do “thân phận” thấp kém của cô; rồi cô được bà tiên trang điểm và ban tặng những thứ tinh xảo tuyệt đẹp, cô xinh đẹp đến nỗi mọi người bị quyến rũ (ngay cả hai người chị em, không thể nhận ra dưới vẻ ngoài đẹp đẽ này, chính là cô em tội nghiệp mà họ coi như hầu gái) và tự hỏi ai có thể là người lạ đẹp tuyệt này. Bản thân hoàng tử cũng ngây ngất trước sự quyến rũ của cô, anh chỉ khiêu vũ với cô, chỉ nhìn thấy mỗi cô… tóm lại, anh đang yêu. Nhưng Cinderella đã bỏ chạy trước khi đồng hồ gõ hồi chuông thứ mười hai, như đã hứa với bà tiên, và trong cuộc bỏ chạy đột ngột của mình, cô làm rơi một chiếc giày… chàng hoàng tử cố gắng chạy theo cô, nhặt chiếc giày và tuyên bố sẽ kết hôn với cô gái nào trong vương quốc đi vừa với chiếc giày. Đối với hoàng tử, không còn nghi ngờ gì nữa, chiếc giày này thuộc về người đẹp xa lạ mà anh đã yêu và chỉ có cô mới có thể mang nó vào, vì nó chính xác là giày của cô. Cuối cùng, hoàng tử sử dụng chiếc giày này để TÌM LẠI một người lạ xinh đẹp mà anh đã biết và đã yêu.
Ở phiên bản V thì ngược lại, Tấm đi lễ được nhà vua tổ chức, trang phục lộng lẫy (có được nhờ Bụt), nhưng chính vì đi tới đó chứ không phải khi bỏ chạy, cô đã đánh mất “chiếc hài thêu chỉ vàng của mình“, và khi nhà vua tìm thấy chiếc hài này, ông không nhìn thấy cô gái trẻ mang nó. Chưa hết, vua ngay lập tức tuyên bố y hệt hoàng tử trong phiên bản O : sẽ cưới cô gái trẻ sở hữu chiếc hài này. Chỉ có điều, không giống như hoàng tử trong bản O, vua không biết người con gái này : vua không bị lóa mắt bởi trang phục lộng lẫy, cũng không phải bởi vẻ đẹp hay trí thông minh và cũng không phải bởi sự duyên dáng của cô… tóm lại, vua không phải đang yêu và không cố gắng TÌM LẠI một người mà từ khi nhìn thấy cô và khiêu vũ với cô, đã chiếm trọn mọi suy nghĩ của ông, mà chỉ đơn giản là TÌM người có thể đi vừa chiếc hài, một người phụ nữ mà ông không hề quen biết, ngoại trừ một chuyện là cô có một bàn chân rất nhỏ.
Tại sao lại có sự khác biệt này?
Tất nhiên ta có thể đoán trước rằng trong gia đình truyền thống Việt Nam, nơi hôn nhân là việc của cha mẹ, việc một cô gái trẻ quyến rũ người chồng tương lai (ngay cả khi anh ta là vua) bằng sắc đẹp, khuôn mặt hay sự duyên dáng của cơ thể cô là có lẽ không thích hợp ; nhưng các giai đoạn khác nhau của việc phát hiện ra chiếc hài dẫn ta đến một giả thuyết khác.
Thật vậy, trong các phiên bản O, chiếc giày bị Lọ Lem đánh mất có thể nhìn thấy rõ ràng và hoàng tử chỉ còn cách cúi xuống nhặt nó lên (trong một số phiên bản, hoàng tử thậm chí còn chứng kiến cảnh Lọ Lem đánh rơi giày) vì vậy, hoàng tử không chỉ có thể xác định một cách hoàn hảo chủ nhân của nó, và sự hiện diện của một chiếc giày ở đây cũng không có gì bí ẩn. Ở phiên bản V thì ngược lại, khi Tấm (cưỡi ngựa phi nước đại đi dự tiệc) bị mất “một chiếc hài vàng“, chiếc hài rơi xuống hồ, do đó ngay lập tức trở nên vô hình trước mắt người qua đường (kể cả đích thân vua). Nhưng khi nhà vua đi trên con đường này : thông thường, ông không thể “nhìn thấy” chiếc hài. Nhưng “con voi (con vật linh thiêng[8]) mà vua cưỡi đột ngột dừng và bắt đầu rống lên rất to”. Và sau đó, nhà vua, thay vì đánh con vật để nó tiếp tục lên đường, đã “ra lệnh cho lính canh kiểm tra hồ nước.” Và tất nhiên, rất nhanh chóng “họ mang cho vua chiếc hài thêu chỉ vàng” và chính ở đó “kinh ngạc vì sự nhỏ bé của chiếc hài, nhà vua đã thề chỉ lấy người mà nó thuộc về ”. Do đó có sự can thiệp của một mệnh lệnh siêu nhiên để nhà vua “tìm thấy” chiếc hài. Nếu ta nhớ rằng, về nguồn gốc của chiếc hài này, đó là một cái hũ nhỏ dưới chân giường, trong đó, theo yêu cầu của Bụt, Tấm đã từng chôn cất nắm xương của con cá bống bị Cám và dì ghẻ nuốt chửng, ta có thể lường được rằng tất cả đã được sắp xếp khéo léo trong chuỗi sự kiện của câu chuyện có vẻ “kỳ diệu” về đôi giày bị mất và được tìm thấy. Nhưng ai đã bày chúng ra?
Rõ ràng là Bụt, vì dường như chỉ có một mình ngài theo dõi và nắm vững lịch sử của chiếc hài này từ nguồn gốc của nó. Nếu chiếc hài này có một số phận chính xác, điều đó có lẽ cũng có nghĩa là Tấm cũng vậy: Tấm đã không phải quyến rũ vua bằng sắc đẹp của mình để trở thành hoàng hậu ; số phận của cô là trở thành Hoàng hậu. Và bất chấp tất cả những trở ngại mà mẹ kế của cô bày ra, cô đã trở thành Hoàng hậu: một con người không thể cản trở vận mệnh theo ý muốn của Bụt.
Trong phiên bản O, như François Flahault nói, Cinderella đã bị cuốn đi bởi những giấc mơ kỳ vĩ cho phép cô chịu đựng được tình trạng của mình. Nhờ có một bà tiên tốt bụng, cô đã gần biến ước mơ của mình thành hiện thực. Nhưng cô thực sự là ai? Cô phải được hoàng tử nhận diện thông qua một manh mối đáng tin cậy (chiếc giày) và phải thả mình vào trò chơi xác định danh tính có liên quan đến cô, để trở thành nữ hoàng.
Ở phiên bản Việt Nam, giấc mơ của cô không thể thành hiện thực. Cô đã sẵn sàng từ bỏ và chấp nhận số phận của mình. Nhưng Bụt dõi theo cô và vua sẽ tìm thấy chiếc hài.
Cũng như trong các bản O, Tấm được gả cho vua. Nhưng trong khi câu chuyện kết thúc ở đó (người kể chuyện ở các bản O đôi khi thêm thắt cái kết là hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc và sinh nhiều con) thì ở bản V, câu chuyện của Tấm và Cám không dừng lại với đám cưới của Tấm. Sau đó bắt đầu phần hai dài gần như phần một, trong đó Tấm vẫn phải chịu đựng sự ngược đãi của dì ghẻ và Cám. Giờ ta sẽ nghiên cứu chúng :
2- Sau khi Tấm kết hôn, sự ngược đãi của dì ghẻ và em gái vẫn tiếp tục.
Giờ Tấm không chỉ có một người chồng che chở, mà người chồng này còn là một người toàn năng : đích thân vua. Vì vậy, sẽ logic – và đây là cách mọi thứ vận hành trong các phiên bản O – nếu em gái và mẹ kế ngừng ngược đãi Tấm, lúc này cô không còn là đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa mà ta từng biết.
Tấm, một cô bé, đã xuất hiện với chúng ta ở đầu truyện như một đứa trẻ ngây thơ và ngờ nghệch (thậm chí hơi ngốc nghếch?), dễ dàng bối rối và rơi vào tất cả những cái bẫy do em gái – trẻ tuổi hơn – bày ra. Ta có thể lý giải cho sự yếu đuối và thiếu chín chắn này của người con cả, bởi sự cô đơn diệu vợi của cô (cô không còn cha hay mẹ) trong khi cô bé Cám, liên tục có mẹ hậu thuẫn, bà mẹ này tìm thấy ở con gái mình một đồng phạm cho những tội ác tồi tệ nhất bà có thể nghĩ ra cho Tấm.
Nhưng bây giờ Tấm, trở thành một người phụ nữ và hoàng hậu, vẫn thể hiện sự ngây thơ (thậm chí vẫn còn ngốc nghếch?).
Đầu tiên, cô về nhà giỗ cha không chút nghi ngờ giống như “tự ném mình vào miệng sói” : quả nhiên trong khi được gả cho vua và sống cùng vua, cô rời vương phủ để về ngôi nhà thuở nhỏ, vì một lý do đầy trang nghiêm : lòng hiếu thảo, vì cô được làm lễ trên bàn thờ gia tiên ngày giỗ cha. Tất nhiên ta không thể chê trách cô về lựa chọn này, nhưng tại sao cô lại ngờ nghệch đến mức đi một mình đến ngôi nhà có hai người phụ nữ ghét cô và đã từng liên tục ngược đãi cô? Nếu người chồng hoàng gia của cô quá bận rộn để đi cùng cô, có lẽ cô vẫn có thể tìm kiếm sự bảo vệ của một vệ sĩ (khá hợp pháp với tư cách hoàng hậu của cô) sẽ can ngăn hai người phụ nữ độc ác tấn công cô. Người phụ nữ Tấm vẫn thể hiện sự ngây thơ, trong sáng như cô bé Tấm. Sự ngây ngô này trở nên khó tin khi theo lệnh của dì ghẻ, Tấm trèo lên “ngọn cây cau cao nhất” hái cau để trưng lên bàn thờ, nghe tiếng động lạ dưới chân cây, hỏi: “Mẹ kế, mẹ đang làm gì vậy?” Bà mẹ ghẻ đang cưa thân cây thì trơ trẽn đáp trả: “Mẹ đuổi kiến để chúng không đốt con.” Tấm chấp nhận câu trả lời này, với sự tin tưởng tuyệt đối và bà mẹ kế lại có thể tiếp tục hành vi tội ác của mình… Tất nhiên là bà ta cưa được gần hết thân cây, trước khi Tấm “nghe thấy” tiếng cưa và tiếng thân cây cọt kẹt… Và khi cây đổ, Tấm tội nghiệp bị “ngã xuống ao gần đó“, và chết đuối. Tấm chết vì bị dì ghẻ giết và người này nhanh chóng “mặc cho Cám bộ quần áo đẹp đẽ rồi đưa vào cung để thế chỗ chị”[9]. Câu chuyện sẽ kết thúc ở đó, nếu không có đạo Phật và sự đầu thai của người chết. Sẽ có 4 lần biến đổi của Tấm, và mỗi lần đó Cám lại kiên trì đi theo lời “khuyên bảo” của mẹ.
Ban đầu, Tấm trở thành một chú chim vàng anh quyến rũ Vua đến nỗi sau này “không còn để ý đến Cám nữa…”. Cám, theo lời khuyên của mẹ mình, giết và ăn thịt con chim vàng anh, nhưng để lại bộ lông trở thành “hai cây xoan đào với những tán lá rung rinh” ; nhà vua treo võng giữa hai cây này và dành phần lớn thời gian ở đó, vì vậy Cám, vẫn theo lời khuyên của mẹ, chặt hai cây xuống và làm khung cửi bằng gỗ. Nhưng với lần biến hóa thứ ba này Tấm đã có một thứ mới : “khi Cám bắt đầu dệt vải, nó nghe tiếng hát từ khung cửi : “Kẽo cà kẽo kẹt. Mày tranh chồng trị, chị khoét mắt ra!”
Cám sợ hãi, nghe theo lời khuyên tối hậu của mẹ, đốt khung cửi và ném “đống tro tàn bên một lối đi xa cung điện“.
Ta hãy cùng ngừng lại một chút với phản ứng này của khung cửi : lần đầu tiên Tấm (tái sinh trong khung cửi này) phản ứng, và cô làm như vậy một cách thô bạo, đe dọa Cám – kẻ đã hành hạ cô bấy lâu nay. Tấm dường như chưa bao giờ nhìn thấy cái “ác” và vẫn cả tin, dù bị hai người phụ nữ này ngược đãi (kể cả tội giết người đã định trước). Tấm ngây thơ cuối cùng cũng nổi dậy và thậm chí còn lên tiếng trả thù! Do đó, cô dường như đã thực hiện một bước quan trọng ở đây. Cô khám phá ra thế giới như nó vốn có và từ bỏ mơ mộng.
Bây giờ ta hãy quay trở lại lần biến chuyển cuối cùng của Tấm – đống tro tàn : ở chỗ Cám ném chúng, “một cây thị mọc lên ở đó (…) Nó chỉ cho một quả thị tỏa hương thơm ngào ngạt…”. Quả thị rơi trong giỏ của một bà cụ, và ngày ngày khi bà về nhà, “luôn thấy nhà cửa sạch sẽ, cơm canh, trà nước nóng hổi (…). Thế là bà giả vờ bỏ đi. Từ cửa sổ, bà nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp như hoa đang nấu cơm. Đó không ai khác chính là Tấm. Bà già xé vỏ quả thị bỏ đi và ôm chầm lấy Tấm.”
Đây là một lần biến đổi cuối cùng cho phép người phụ nữ chết trẻ trở lại trở thành một người phụ nữ sống động và thậm chí là một người nội trợ hoàn hảo ; nhưng để làm cho cuộc sống trở lại này trở thành hiện thực, cần có sự can thiệp của một người phụ nữ, không phải của một bà tiên, mà của một người phụ nữ bình thường, bằng cách xé bỏ lớp vỏ rỗng của quả thị (giống như ma trận, hay miếng da lừa trong cổ tích?) để mang tới sự tái sinh của người mà bà gọi là con gái mình. Câu chuyện kể tiếp rằng giờ đây họ đang sống hạnh phúc với nhau “như một người mẹ và một cô con gái“. Vì vậy, cuối cùng Tấm cũng biết đến “người mẹ tốt” mà cô luôn nhớ nhung là thế nào, và bà là người sẽ cho phép cô bước vào tuổi trưởng thành. Nhà vua, chồng cô có thể trở lại… Và nhà vua thực sự đi qua nhà và khi bà già mời ông “trà và trầu”, ông thốt lên “Ai têm trầu đây?” Bởi chúng có “hình dáng như cánh phượng, và chỉ có Tấm mới biết têm một cách thật tinh xảo như vậy”.
Nhận ra người vợ yêu quý, ông lại vời “tuyệt sắc giai nhân” về dinh…
Sau khi kết hôn, Tấm không những phải trải qua tất cả những thử thách và gian truân này để trở thành một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, mà người chồng sau lần đầu “công nhận” Tấm bởi nhan sắc (bàn chân nhỏ), phải thêm một lần “công nhận” khác bởi phẩm hạnh (nghệ thuật têm trầu, biểu tượng của sự hòa hợp và chung thủy ở Việt Nam). Chỉ có sự hiện diện của người mẹ yêu thương mới có thể làm nên điều kỳ diệu này. Mọi thứ diễn ra ở đây, như thể cuộc hôn nhân không nhất thiết đã là “xong xuôi” đối với người phụ nữ. Chỉ riêng hôn nhân thôi là không đủ để khiến Tấm trở thành một con người thành tựu và có trách nhiệm. Chính những thử thách tiếp theo mới thành công trong việc biến cô bé nhút nhát và sợ hãi trở thành một người phụ nữ tự tin, biết cách phân biệt thiện – ác một cách hoàn hảo. Ngược lại, cô em gái Cám, luôn ở trong vòng kiềm tỏa của bà mẹ, bị bà mẹ chỉ đạo không ngừng và không học được bất cứ điều gì về cuộc sống ngoài những lời khuyên củng cố thêm lòng ghen tị của cô.
3- Hình phạt của kẻ có tội và cái chết.
Trong các phiên bản O, Cinderella không bận tâm đến việc trừng phạt kẻ có tội : trong câu chuyện của Perrault, cô tha thứ cho những điều xấu xa của hai người chị em và thậm chí còn làm nhiều hơn thế : “trong cùng ngày, cô gả họ cho hai vị lãnh chúa lớn của triều đình” ; (tất nhiên, thói quen tha thứ tội lỗi này nhắc nhở ta về nguyên tắc của đạo Thiên Chúa.) Với Grimm, Cinderella cũng chẳng trừng phạt ai, nhưng chính hai con bồ câu, trong ngày cưới, đã “”mổ mắt” cả hai chị em như sự trừng phạt cho thói gian ác của họ” : do đó, chính do Trời chứ không phải Cinderella chịu trách nhiệm trừng phạt kẻ ác. Có một số phiên bản (Đảo Corse, Nhật Bản, Tây Tạng…) nơi kẻ ác bị trừng phạt nghiêm khắc, nhưng nói chung là do Trời hoặc – hiếm hơn – bởi nhà vua, nhưng không bao giờ bởi Cinderella. Một phiên bản tiếng Đức cho ta biết rằng hai chị em bị “kết án khiêu vũ với đôi giày bị nung nóng đỏ cho đến chết“, nhưng một lần nữa không phải Cinderella gieo rắc cái chết từ từ mà rất tàn bạo này lên hai chị em.
Ở phiên bản V thì hoàn toàn khác, ta thấy Tấm tự mình quyết định, tổ chức và thực hiện một cách tàn nhẫn và dứt khoát hình phạt cho hai người phụ nữ đã bức hại mình. Cô dường như không lên kế hoạch cho hình phạt của mình, vì chính Cám đã luôn là người khiêu khích Tấm một cách ngây thơ : các vai trò đã luôn bị đảo ngược. Trong thời thơ ấu của hai chị em, như ta đã thấy, cô bé Cám, bị mẹ xui khiến, đã đặt bẫy và “ngược đãi” cô chị liên tục; Tấm không cho phép bản thân làm việc gì khác ngoài rơi nước mắt, điều này đã khiến cô phải nhờ đến sự giúp đỡ của Bụt. Nhưng giờ đây mọi chuyện đã thay đổi : Cám cũng ở chốn hoàng cung, nơi tôn nghiêm truyền thống, cô vẫn làm vợ hai nhưng mẹ thì ở xa, trong khi Tấm đã tìm lại được lẽ sống, tình yêu của vua và địa vị vợ cả. Xa mẹ, Cám bộc lộ sự ghen tị và đố kỵ, bản thân chẳng học được gì trong suốt thời gian qua, nhưng bây giờ Tấm có vẻ như không còn vô cớ mà nghi ngờ em gái mình. Vì vậy, khi Cám hỏi cô làm thế nào để có được làn da trắng như vậy, Tấm chỉ trả lời rằng “Nếu muốn xinh đẹp, em có chịu làm những gì chị muốn không?” Bây giờ chính cô là người “muốn” và áp đặt ý chí khiến Cám phục tùng ngay : “Tấm ra lệnh đào một cái hố sâu rồi kêu em gái xuống đó, rồi ra lệnh rót nước sôi vào hố”. Cô em gái ngây thơ (và ngu ngốc?) rơi vào bẫy. Tấm đã loại bỏ được Cám, nhưng vẫn còn dì ghẻ! Thế là Tấm lo liệu chuyện đó ngay : cô cho xác Cám vào hũ đựng nước mắm rồi “gửi hũ mắm cho dì ghẻ, bảo là của Cám tặng”. Dì ghẻ mê mải ăn “chẳng mảy may nghi ngờ điều gì, cho đến ngày ăn đến đáy hũ, mụ phát hiện ra đầu lâu con gái. Mụ kinh hoàng và chết điếng.”
Lần này, cả hai người phụ nữ độc ác đã bị trừng phạt và loại bỏ ; cuối cùng Tấm có thể sống đời mình!
Nhưng ta hãy xem xét kỹ hơn những hình phạt này, chúng tôi sẽ đưa ra bốn nhận xét :
a) Tấm hành động một mình. Không như Cám luôn cầu cứu mẹ để thực hiện tội ác của mình. Và cũng ngược lại với cô bé Tấm đã nhận được sự giúp đỡ của Bụt vào đúng lúc, khi phải đối mặt với một số thử thách. Do đó, Tấm đã trở nên tự chủ và tự nguyện : cô không xin bất kỳ lời khuyên hay sự giúp đỡ nào, không phải từ nhà vua, cũng không từ người mẹ nuôi “tốt bụng”, và từ Bụt lại càng không.
b) Những hình phạt này tuân theo một loại luật trả thù. Để trừng phạt Cám, Tấm dùng nước sôi : nước mà Cám đã từng gây ra lần đầu tiên bắt nạt chị gái, và sau đó là nước đã làm Tấm bị chết đuối ; nhưng nước sôi còn có nghĩa là lửa mà Cám đã châm vào khung cửi – một trong những hóa thân của Tấm. Để trừng phạt dì ghẻ, Tấm đã cho mụ ăn thịt con gái ruột của mình, giống như việc dì ghẻ đã từng bắt Cám giết thịt con cá bống (bạn của Tấm), sau đó là con chim vàng anh (lần đầu tái sinh của Tấm). Và chính khi phát hiện ra tội ác của mình, người mẹ kế đã chết vì quá sốc. Do đó, những hình phạt này rất giống với sự trả thù : Mắt đền mắt, răng đền răng… Chẳng lẽ nạn nhân có quyền tự thực hành công lý? Có lẽ là không, bởi vì ta không được quên rằng Tấm bây giờ đã có một thân phận đặc biệt : Hoàng hậu, và ở đây chẳng phải cô có quyền đề ra luật và ra hình phạt hay sao? Lưu ý rằng trên thực tế, vẫn không phải cô là người thi hành án. Người kể chuyện nói rõ cho ta thấy : Tấm “ra lệnh đào một cái hố sâu (…) và ra lệnh rót nước sôi vào…”.
Vậy không phải Tấm đã giết Cám. Cô cũng không giết người mẹ kế, vì bà ta kinh hoàng do đã ăn thịt con gái mình rồi “chết điếng.” Hơn nữa, trong một phiên bản tiếng Việt khác[10], Tấm chỉ đưa lời khuyên cho cô em gái ghen tị với nước da đẹp của cô : “Hãy đào một cái hố để tắm, và em cho người giội xuống một bình nước sôi, một lượt duy nhất. Như vậy da em sẽ trở nên trắng như sữa”. Cám nghe lời chị gái và chết tức tưởi. Ở một phiên bản khác, bà mẹ kế phát hiện mình vừa ăn thịt con gái đã gieo mình xuống ao. Do đó, trong tất cả các phiên bản V này, thực sự có một lời nhấn mạnh của người kể chuyện : Tấm không bao giờ tự tay gây nên cái chết cho những tên đồ tể xưa kia của mình. Cũng giống như cách mà số phận đã cho phép Tấm chấp nhận “xuôi theo” và cũng chính số phận cho phép cô thành toàn chính mình, hai người phụ nữ làm theo bản năng cũng sẽ phải chịu một hình phạt cho tội ác của họ. Nó ám chỉ đến một quy luật bản thể học được truyền tụng trong nhiều truyền thống: “Ta luôn bị trừng phạt ở chỗ ta phạm lỗi”.
d) Cái kết này đặc biệt kinh khủng và nhiều phiên bản V gần đây, đặc biệt là những phiên bản dành cho trẻ em (ví dụ như phiên bản có hình ảnh minh họa) đã loại bỏ nó hoàn toàn hoặc một phần (đặc biệt là phần thứ hai, với đầu lâu Cám trong đáy hũ mắm). Không nghi ngờ gì nữa, ý tưởng ăn thịt đồng loại cũng như sự xuất hiện đầy rùng rợn của một cái đầu lâu dưới đáy một miếng ăn thơm ngon, là thứ không thể chịu đựng nổi đối với trẻ nhỏ.
Chúng tôi đã phỏng vấn những người Việt Nam đã nghe bản đầy đủ vào thời thơ ấu, và họ xác nhận với chúng tôi rằng cái kết này, bất chấp mọi sự kinh dị của nó, dường như rất công bằng đối với họ (xứng đáng với tất cả những gì Tấm đã trải qua!). Họ thậm chí đã cười vui khi thấy hai người phụ nữ độc ác bị trừng phạt một cách tàn nhẫn, đặc biệt là vì tới lúc đó họ vẫn còn “phạm tội ác”, một người thì quá đỏng đảnh (và ngu ngốc?) và người còn lại do quá ham ăn. Những đứa trẻ vô thức hiểu được biểu tượng từ những hình ảnh mạnh mẽ này, chúng nhớ rằng một hình phạt khủng khiếp luôn chờ đợi kẻ ác.
Vậy câu chuyện này nói lên điều gì? Phim kể về hành trình khai tâm của một cô bé, một cô gái trẻ, sau đó là một phụ nữ, vì vậy nó hướng đến các cô gái nhiều hơn là các chàng trai. Câu chuyện kể về các cô gái: làm thế nào họ có thể “lớn lên” với cái giá của những trải nghiệm đôi khi đau đớn mà họ sẽ giành được khi trưởng thành. Câu chuyện cũng nói với họ rằng, đối với phụ nữ, bản thân hôn nhân không phải là dấu chấm hết, và nhan sắc không đủ để quyến rũ người chồng mãi mãi. Nó cũng nói với họ rằng gia đình không nhất thiết phải là một tổ ấm hay một cái kén dễ chịu, mà ta có thể bỏ qua những đố kỵ, hận thù, ghen ghét, dối trá, bạo lực…
Bài học cuộc sống dành cho các cô gái trẻ chăng?
Không chỉ có thế…
Thực sự, có một điều nổi bật trong câu chuyện này (mà người ta cũng tìm thấy thêm trong hầu hết các phiên bản O), đó là sự “vắng mặt” của những người đàn ông. Ở đây ta có một thế giới gần như chỉ dành riêng cho nữ giới, nơi phụ nữ yêu hoặc ghét nhau, đối đầu với nhau, trả thù và giết nhau… Người cha rất nhanh chóng biến mất khỏi câu chuyện, và khi một người đàn ông xuất hiện – nhà vua – người trở thành chồng của một trong những người phụ nữ, ông ta tuyệt đối “vắng mặt” trong mọi cuộc đối đầu : ông ta không có khả năng lường trước, thậm chí còn không nhìn thấy những nguy cơ đe dọa vợ mình, ông ta để cho mình bị người mẹ kế đánh lừa mà không có sự phân định sáng suốt nào (thật khiến ta hoang mang), cũng không tìm cách biết vợ ông qua đời vì lẽ gì, hay thậm chí cũng không tìm hiểu liệu cô thực sự đã chết hay chưa : ông chỉ được kể là “rất không hài lòng”. Khi nhận ra con chim vàng anh quyến rũ không ai khác chính là vợ mình, ông cũng không thể bảo vệ nó khỏi sự ngược đãi của Cám ; cuối cùng khi đã tìm được vợ, ông cũng không tìm cách ngăn cản hành vi phạm tội của Cám và mụ dì ghẻ. Như ta đã thấy, chính Tấm là người duy nhất “loại bỏ” được hai kẻ thù của mình và bằng cách loại bỏ họ, cô vĩnh viễn loại bỏ những mối đe dọa vẫn đeo bám cô. (trong một phiên bản khác V đã trích dẫn ở trên[11], người kể chuyện chỉ rõ rằng nhà vua được “báo tin về tội ác của mẹ con Cám”, nhưng khi nghe được tất cả những điều đó ông cũng không ra tay hành động!).
Tất nhiên là có Bụt luôn dõi theo Tấm, và là người đóng vai trò quan trọng trong hành trình khai tâm của cô, nhưng ta có thể nói rằng Bụt là người không? Đây là, như ta đã nói ở trên, một “người” siêu việt (với người Việt Nam, Bụt là người cứu giúp người nghèo và kẻ yếu) và không phải là con người theo nghĩa xác thịt. Vai trò quan trọng của Ngài trong cuộc đời của Tấm cũng nói rằng con người (chứ không chỉ có phụ nữ) có một số phận cuối cùng sẽ thành tựu nếu ta chấp nhận nghe theo những hướng dẫn của ngài, bất kể những người khác có làm gì để cản trở số phận này – thứ đã được quyết định bởi một thế lực vượt quá khả năng của họ.
Do đó, từ câu chuyện này, ta có thể rút ra một sự phản ánh toàn diện về vị trí của trẻ em gái và phụ nữ trong xã hội, trong cặp vợ chồng và trong gia đình, vốn quan tâm đến các bé trai (mai này sẽ là đàn ông) như các bé gái. Trên thực tế, họ sẽ đọc ở đây rằng ngay cả trong một xã hội vốn dĩ rất cứng nhắc về địa vị chủ chốt của nam giới trong gia đình và ngoài xã hội, việc đào tạo và giáo dục họ vẫn tùy thuộc vào trẻ em gái và phụ nữ, để bản thân phụ nữ có thể chuẩn bị cho vai trò người lớn tự chủ, có trách nhiệm, ý thức được quyền và bổn phận của mình trong gia đình và để chồng họ trở thành những con người có trách nhiệm.
Điều đó đủ để nói lên ý nghĩa đạo đức phổ quát và vượt thời gian của câu chuyện này, trong phiên bản tiếng Việt của nó.
***
Đối với Phật tử, nghiệp (karma) mà một người tạo ra bằng hành động, dù bởi thân thể, lời nói hay tâm trí, về cơ bản là thuận lợi hay bất lợi, tích cực hay tiêu cực (kusala hay akusala trong tiếng Phạn; ý nghĩa phổ quát đối với kusala: vừa phải, thích hợp, phù hợp, tốt, nhân từ và đối với akusala: đối lập của chúng), tùy thuộc vào trạng thái tâm trí làm nền tảng cho hành động.
Vì vậy, nếu ta cho ai một thứ gì đó một cách vị tha, ta đã tạo ra nghiệp tích cực. Tuy nhiên, sẽ không còn là như thế nếu ta cho đi vì mong đợi được đáp lại một thứ gì đó. Cuối cùng, nghiệp đã tạo có thể mang lại kết quả trong đời này hoặc trong một cuộc đời tương lai.
“Ai làm những việc đen tối sẽ gặt hái kết quả đen tối ; và ai làm những việc tươi sáng sẽ gặt hái kết quả rực rỡ. Cả hai sẽ tái sinh trong những thế giới tương ứng với hành vi của họ” (Majjhima-nikāya).
Trong Phật giáo cổ đại, để tạo ra nghiệp, cần phải kết hợp ý định hành động, bản thân hành động và sự thỏa mãn khi đã hành động. Ngoài những điều kiện này, hành động không tạo ra nghiệp.
[1] Đỗ Lan Chi Lan. Truyện kể từ Việt Nam. Tuổi thơ và sự truyền khẩu. Bản chỉnh sửa. L’Harmattan Paris 2007. Col. Thần thoại thế giới.
[2] Nguyễn Văn Dũng: Hướng tới cách tiếp cận đa văn hóa trong việc giảng dạy văn học Pháp. Khảo luận Synergies, các quốc gia giáp sông Mekong, N ° 1 2010, do GERFLINT biên tập
[3] Hữu Ngọc và Françoise Correze, Tuyển tập Văn học Dân gian Việt Nam The Gioi 1984.
[4] Cecile Gagnon: Tấm và Cám, cổ tích Việt, Éditions de l’Isatis, 2008
[5] Brigitte Moise Durand: Luận văn cho DIU khoa Tâm thần học xuyên văn hóa 2009
[6] Bản do Hữu Ngọc đưa,
[7] Bản do Đỗ Lan Chi Lan đưa
[8] Theo Hữu Ngọc, con voi tượng trưng cho sự hiền lành, ngoan ngoãn, thông minh, trung thành và mạnh mẽ. Nó được coi là một vật cưỡi của hoàng gia và thậm chí mang ý nghĩa thiêng liêng.
[9] Đây không phải là ngoại lệ mà là một tục lệ rất phổ biến trong gia đình truyền thống của Việt Nam.
[10] Tấm và Cám trong “Văn hoá Việt Nam” Hữu Ngọc. Ed. Thế Giới 1996
[11] Xem điểm 5.
ThS. Vân Anh dịch từ nguyên bản tiếng Pháp “Tam et Cam, Cendrillon au Vietnam ou le parcours intiatique d’une femme” của bác sĩ Y khoa và nhà Tâm lý Marie-Eve Hoffet-Gachelin (Đại học Paris V, Paris, Pháp).