(Đối với loài người chúng ta, cái tôi (the self) là thứ sẽ xuất hiện khi phần “Tôi” (I) đối đầu với “chính Tôi” (Me) ở mỗi người. [1]Khi bàn về tính cá nhân (selfhood), một câu hỏi trọng tâm xét về khía cạnh tâm lý học đó là: Làm thế nào để một người có thể tiếp thu và thấu hiểu được họ là ai? Trong suốt một thế kỷ, rất nhiều nhà tâm lý học đã tiếp cận đến hành trình nghiên cứu về “cái tôi” (the study of self) và những khái niệm liên quan về bản dạng (identity) bằng rất nhiều phương pháp. Tuy nhiên chúng ta có thể đúc rút ra được 3 hình tượng ẩn dụ cấu thành nên “cái tôi” đã liên tục được hình thành trong nhiều lý thuyết.
- Đầu tiên, “cái tôi” có thể được nhìn nhận như một tác nhân xã hội (social actor), một người thực hành các vai trò [trong xã hội] và thể hiện các tính cách tương ứng qua các hành vi có thể được chứng kiến bởi người khác.
- Thứ hai, “cái tôi” là một tác nhân thúc đẩy, hành động theo những mong muốn bên trong cá nhân và hình thành các mục tiêu, giá trị và kế hoạch để hướng dẫn hành vi của cá nhân đó trong tương lai..
- Thứ ba, “cái tôi” cuối cùng sẽ trở thành một tác giả tự bạch, một người suy ngẫm, đánh giá về cuộc đời – bao gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lai – để tạo ra một câu chuyện trả lời cho những câu hỏi “Tôi là ai?”, “Tôi đã trở thành như thế nào?”, “Cuộc đời tôi có thể đi đến đâu?”
Trong chuỗi bài viết này, chúng ta sẽ cùng xem qua các ý tưởng chủ đạo về “cái tôi” và “bản dạng”, tìm hiểu về những đặc tính của tính cá nhân (selfhood) được phát triển xuyên suốt cuộc đời con người.
Tại điện thờ thần Apollo ở Delphi, người dân Hy Lạp cổ đại đã khắc lên những dòng chữ: “Know thyself” (Tạm dịch: Tự biết mình). Trong ít nhất 2,500 năm, loài người đã luôn đào sâu suy nghĩ về ý nghĩa trong lời cách ngôn [2] được để lại. Suốt 100 năm qua, rất nhiều nhà khoa học tâm lý cũng đã “nhập hội”, tạo ra rất nhiều thuyết và thử vô vàn giả thiết đặt trọng tâm vào đúng một câu hỏi về tính cá nhân của con người: Làm sao để một người biết họ là ai?
Người Hy Lạp cổ đại dường như đã nhận ra rằng “cái tôi” vốn dĩ có tính phản tư – nó phản chiếu lại chính bản thân nó. Trong một ý tưởng đơn giản đến quan ngại, được phổ biến bởi nhà tâm lý học vĩ đại William James (1892-1963), “cái tôi” là thứ xảy ra khi phần “Tôi” phản chiếu lại phần “chính Tôi”. Nó bao gồm cả phần “Tôi” và phần “chính Tôi”, đại diện cho phần hiểu biết (knower) [3] của con người. Tuy nhiên, “cái tôi” chỉ có thể trở nên hiểu biết khi nó bắt đầu quá trình phản tư [4].
Nhìn lại chính bản thân mình, bạn thấy điều gì? Khi bạn tìm về trong chính bản thân mình, có điều gì mà trước giờ bạn không nhận thấy? Hơn thế nữa, khi bạn cố gắng thay đổi bản thân, dù bằng bất kể cách nào đi chăng nữa, liệu bạn có thực sự biết bạn đang thay đổi ở chỗ nào không? Nhà triết học Charles Taylor (1989) mô tả “cái tôi” như một đối tượng có tính phản tư. Trong cuộc sống hiện đại, Taylor cho rằng chúng ta thường xuyên cố gắng để quản lý, đưa vào khuôn khổ, mài giũa, cải thiện, và phát triển “cái tôi” của mình. Chúng ta làm việc lên “cái tôi” của mình, tự tạo ra tác động lên chính bản thân, giống như cách chúng ta thực hiện bất kỳ dự án thú vị nào khác. Nhưng lại một lần nữa, điều gì mới chính là thứ chúng ta đang tác động lên?
Thử tưởng tượng về một khoảnh khắc mà bạn quyết định sẽ cải thiện bản thân. Bạn sẽ có thể quyết tâm theo một chế độ ăn kiêng để cải thiện vóc dáng. Hoặc bạn quyết định sẽ xử sự nhẹ nhàng hơn với mẹ mình, như một cách cải thiện một vai trò xã hội quan trọng trong cuộc sống của bạn. Hoặc có thể bạn nghĩ tới công việc – bạn cần tìm một job “ngon” hơn hoặc lấy một tấm bằng đại học khác để theo đuổi một lĩnh vực mới. Đôi khi, bạn chỉ cần làm việc chăm chỉ hơn hiện tại, hoặc sống ngăn nắp hơn. Hoặc có lẽ, lời giải đáp cho việc “Làm sao để cải thiện bản thân?” lại đến từ việc bắt đầu suy nghĩ lại về cuộc đời bạn theo một góc nhìn hoàn toàn mới, một góc nhìn có thể giúp bạn cảm thấy hạnh phúc hơn, viên mãn hơn, có nhiều cảm giác an yên hay hào hứng hơn.
Dù cho có rất nhiều cách để bạn có thể “phản tư” và cố gắng cải thiện “cái tôi” của mình, phần lớn những cách đó có lẽ đã rơi vào ba thể loại tâm lý học lớn (McAdams & Cox, 2010). Phần “Tôi” có thể đối đầu với phần “chính Tôi” như là (1) một tác nhân xã hội (a social actor), (2) một tác nhân thúc đẩy (a motivated agent), hoặc là (3) một tác giả tự bạch (an autobiographical author).

Chú thích
[1] Phần “Tôi” và phần “chính Tôi” (The ‘I’ and the ‘me’) là hai thuật ngữ chủ đạo trong học thuyết của George Herbert Mead, một trong những nhà triết học xã hội có nhiều ảnh hưởng lớn đến một nhánh của xã hội học mang tên “Thuyết tương tác biểu tượng” (symbolic interactionism). Phần “Tôi” và phần “chính Tôi” được hiểu trong phạm vi tâm lý học về cá nhân, với cách lý giải của Mead thì “chính Tôi” là khía cạnh xã hội của một con người, còn “Tôi” là khía cạnh chủ động, độc lập của người đó. Định nghĩa này cũng được Mead công nhận là có điểm tương đồng với các khái niệm trong phân tâm học của Freud như “Cái kiểm duyệt” (censor) với “chính Tôi” và “bản ngã” (ego) với “Tôi”. (Theo Wikipedia)
[2] Cách ngôn (aphorism) là tục ngữ, ngạn ngữ hoặc danh ngôn nhưng chỉ có nghĩa đen, đơn thuần về mặt giáo dục.
[3] Knower (người biết) trong tiếng Anh có thể được hiểu như một người hiểu biết, tiếp nhận điều gì đó, đặc biệt là những vấn đề về triết học. Knower (người biết) dù cũng mang nghĩa tiếp nhận tri thức, nhưng khác learner (người học) ở chỗ người học có tinh thần đón nhận sự ảnh hưởng [từ người khác] (willing to be influenced).
[4] Phản tư là hình thức của sự tự ý thức ở mức độ cao nhất.
Dịch và trình bày: Phương Anh (Thực tập sinh Viện TLH&TT)
Hiệu đính: Vân Anh
Tham khảo: McAdams, D. P. (2021). Self and identity. In R. Biswas-Diener & E. Diener (Eds), Noba textbook series: Psychology. Champaign, IL: DEF publishers. Retrieved from http://noba.to/3gsuardw
2 thoughts on “Cái Tôi và Bản Dạng – Phần 1: Giới thiệu”